
Cơ chế giao chỉ tiêu tín dụng (room tín dụng) đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) duy trì suốt hơn chục năm qua, là công cụ để cơ quan này kiểm soát chất lượng và quy mô dư nợ cho vay của các ngân hàng, cũng như phục vụ các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác như lãi suất, cung tiền và lạm phát.
Sau thời gian dài đóng góp quan trọng vào hoạt động điều hành của NHNN, cơ chế phân bổ room tín dụng đã bộc lộ nhiều hạn chế; nhất là khi nhu cầu vốn phục vụ tăng trưởng nền kinh tế ngày càng tăng và phần lớn các ngân hàng đã hoàn tất việc tuân thủ các tiêu chuẩn theo Basel II và Basel III theo chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện để ngành ngân hàng vận hành theo hướng linh hoạt hơn.
Việc “tiến tới bỏ room tín dụng” cũng đã được các lãnh đạo NHNN đề cập nhiều lần trong thời gian gần đây. Tại hội nghị Thủ tướng làm việc với các ngân hàng thương mại vừa qua, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết: “Ngân hàng Nhà nước sẽ đổi mới biện pháp điều hành và có lộ trình giảm dần và tiến tới xóa bỏ phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng”.
Bỏ room tín dụng tác động thế nào tới các nhóm ngân hàng?
Trao đổi tại tọa đàm Bàn tròn chính sách với chủ đề “Room tín dụng” do VietnamBiz tổ chức sáng ngày 11/3, chuyên gia Nguyễn Tú Anh, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương, cho rằng việc bỏ room tín dụng sẽ mang lại tác động tích cực đối với nền kinh tế.
Theo vị chuyên gia này, bản chất room tín dụng hiện tại là phân chia thị phần tín dụng cho mỗi ngân hàng theo mức nhất định hàng năm, song điều này sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng. Nếu room tín dụng được dỡ bỏ, các ngân hàng có năng lực tốt sẽ được phép cạnh tranh tự do; từ đó tạo ra sức ép đối với các ngân hàng kém hiệu quả hơn, buộc họ phải cải thiện hoặc tái cấu trúc, thậm chí sáp nhập để không bị mất thị phần và doanh thu.
Việc này sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế, sự cạnh tranh gia tăng có thể giúp lãi suất không quá cao và người dân dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn. Hiện tại, khi room tín dụng bị giới hạn, khách hàng có thể gặp khó khăn trong việc vay vốn vì ngân hàng đã hết chỉ tiêu cho vay, dẫn đến việc phải vay ở các tổ chức khác, làm gián đoạn kế hoạch tài chính của họ.
Tiến sĩ Nguyễn Tú Anh, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương
Tuy nhiên, chuyên gia Nguyễn Tú Anh cũng cho rằng việc bỏ room tín dụng cần phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo an toàn vĩ mô. Vì khi dỡ bỏ hạn chế này, môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ trở nên gay gắt hơn.
Theo đó, các ngân hàng cổ phần (NHCP) có năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn ở một số khía cạnh và họ hoàn toàn có khả năng vươn lên nếu không bị giới hạn về room tín dụng. “Thậm chí tôi đang lo ngại hơn cho các ngân hàng có vốn của nhà nước, bởi vì nhóm này bị hạn chế bởi nhiều thứ mà các ngân hàng cổ phần thì không”, ông Nguyễn Tú Anh nhận định.
Hiện nay, việc tăng vốn đối với các ngân hàng có vốn nhà nước là rất khó khăn. Nếu các NHCP được tự do tăng tín dụng, họ sẽ nhanh chóng có khả năng tăng vốn. Khi NHCP tăng vốn nhanh chóng, họ sẽ dễ dàng đáp ứng các chỉ số an toàn và đủ điều kiện để mở rộng thị phần.
“Và ở cuộc chiến về thị phần, Big4 có thể là những ngân hàng thua thiệt, chứ không phải các ngân hàng cổ phần. Trong môi trường kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Các ngân hàng nào quản trị tốt, có tầm nhìn và làm tốt sẽ thắng trong cuộc chơi này, như vậy phải chấp nhận cuộc chơi “fair””, Vị chuyên gia này cho hay.
Trong khi đó, ông Lê Hoài Ân, chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, người sáng lập IFSS và đồng sáng lập WiResearch cho rằng với nhóm ngân hàng quốc doanh, việc bỏ room tín dụng cũng không tác động quá lớn bởi nhóm này sẽ tập trung tối ưu hoá hoạt động thay vì đẩy mạnh thị trường. Nếu bỏ room tín dụng, các nhóm ngân hàng tư nhân sẽ chịu tác động nhiều nhất nhưng hoàn toàn khác nhau.
Thứ nhất, nhóm tập trung vào cho vay doanh nghiệp, họ sẽ có cơ hội tăng trưởng tốt nhưng vẫn phải giải bài toán về tỷ lệ 30% vốn cho vay trung và dài hạn. Nếu huy động 1.000 tỷ đồng cũng chỉ cho vay trung và dài hạn được 300 tỷ đồng. Dù muốn tăng trưởng cao nhưng huy động không bù được cho chuyện tăng trưởng thì họ sẽ phải giải bài toán về thay đổi cơ cấu tài sản huy động.

Ông Lê Hoài Ân, chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, người sáng lập IFSS và đồng sáng lập WiResearch.
Thứ hai là nhóm chuyên về bán lẻ, dù có bỏ room nhưng với xu hướng dịch chuyển dòng chảy tín dụng từ cá nhân sang doanh nghiệp thì cũng khó phát triển được nhiều. “Muốn tăng tín dụng doanh nghiệp thì nhóm ngân hàng này sẽ mất thời gian để xây dựng tệp khách hàng chứ chưa thể đẩy mạnh được ngay”, ông Ân nhận định.
Thứ ba, là nhóm các ngân hàng tư nhân nhỏ, khi bỏ room tín dụng họ sẽ gặp phải cạnh tranh ở “tứ phía”. Theo chuyên gia Lê Hoài Ân, các ngân hàng nhỏ sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn rất nhiều, bởi trước kia có room thì các ngân hàng lớn phải ưu tiên chọn lựa phân khúc khách hàng để cho vay vì khi sử dụng hết room cũng không được tăng thêm nhưng bây giờ khi không bị hạn chế, các ngân hàng lớn sẽ “đánh” vào nhiều phân khúc hơn, tạo áp lực cạnh tranh lên các ngân hàng vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, ông Ân cũng cho rằng, khi bỏ room tín dụng, NHNN cũng cần thay đổi cơ chế giám sát bằng việc siết lại các chỉ số như: Hệ số CAR, tỷ lệ LPR, tỷ lệ SFLR, tỷ lệ NPL. Đặc biệt, NHNN cần giám sát chặt sẽ để tránh xảy ra tình trạng dòng vốn chệch hướng sau khi bỏ room tín dụng.

Ông Trần Hoài Phương, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành Ngân hàng HDBbank.
Dưới góc độ một lãnh đạo ngân hàng, ông Trần Hoài Phương, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành Ngân hàng HDBbank đánh giá, việc bỏ room tín dụng ít nhất sẽ có tác động tâm lý tích cực, tạo cảm giác lạc quan. Đối với ngân hàng thì sẽ có thể tăng cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp; đối với người tiêu dùng, họ sẽ cảm thấy việc vay vốn trở nên dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, các định chế tài chính quốc tế cũng có thể đánh giá việc này như một tín hiệu cho chính sách cởi mở hơn, từ đó nâng hạng tín nhiệm của các ngân hàng Việt Nam.
Mạnh Đức